Gia đình ông Võ Công Tồn vốn có nguồn gốc từ Phan Thiết, đến đời ông nội của ông thì chuyển vào Nam định cư, khai phá vùng đất mới bên bờ sông Rạch Chanh (nay thuộc thành phố Tân An). Thân sinh của ông Võ Công Tồn là cụ ông Võ Văn Suốt và cụ bà Nguyễn Thị Hâm, mưu sinh bằng nghề hát bội, sau đó định cư, làm ruộng tại ấp Cá Trê (nay là ấp Lò Gạch) và xây dựng lò sản xuất gạch ngói. Nhờ lao động cần cù, việc kinh doanh của thân sinh ông Võ Công Tồn ngày càng phát đạt. Riêng cụ ông Võ Văn Suốt rất được nhân dân tín nhiệm, từng làm đến chức Hương cả. Cụ Cả Suốt còn dùng lẫm lúa của gia đình dạy chữ nho và quốc ngữ để mở mang trí tuệ cho con em trong vùng.
Sống và lớn lên trong một gia đình nề nếp, có truyền thống yêu nước, lại là người con duy nhất nên ông Võ Công Tồn rất được cha mẹ yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ kỹ lưỡng. Thuở nhỏ, ông học lớp nhất (Corus Supérieur) ở trường Bến Lức, sau đó học tiếp 6 năm trung học ởTrường nội trú Taberd (Sài Gòn). Vì là con duy nhất nên ông không học tiếp nữa mà trở về phụng dưỡng song thân và lập gia đình.
Là người yêu chuộng công bình, chính trực, Võ Công Tồn sớm nhận rõ nổi nhục mất nước, thân phận của đồng bào… nên ông đề xuất việc mở trường học, bên vực kẻ yếu và được tiếng “dân yêu quan ghét”. Ông thường được dân chúng cử tham gia chức việc trong làng, từ năm 1925 đến 1939, ông lần lượt giữ các chức Hương hào, Xã trưởng, Hương cả. Chính trong thời gian này, lợi dụng thế hoạt động công khai của mình ông đã hết lòng giúp đỡ cách mạng. Với tính tình bặt thiệp, chánh trực, lại hâm mộ thể thao, văn nghệ, thích giao du với nhiều người, ông kết thân với nhiều bạn bè, đồng chí có đạo đức, yêu nước, danh tiếng lan ra khắp Nam Kỳ.
Khi chí sĩ Nguyễn An Ninh về nước và tổ chức các cuộc diễn thuyết ở Vườn Lài về đạo đức, luân lý Đông, Tây; về tư tưởng văn hóa “dân ước, dân quyền, dân đạo”; ông bắt đầu nhận thức về hành động cứu nước theo con đường cách mạng tư sản dân quyền. Năm 1923, ông gia nhập “Thanh niên Cao vọng Đảng”, sau này là “Hội kín Nguyễn An Ninh. Ông cũng là một trong những mạnh thường quân ủng hộ tài chính cho Nguyễn An Ninh thành lập và duy trì hoạt động tờ báo La Cloche fêlée (Tiếng chuông rè). Đây là tờ báo tiến bộ công khai, lần đầu tiên đăng “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” ở Sài Gòn.
Năm 1926, ông cùng Trần Huy Liệu mở cuộc vận động đón tiếp Bùi Quang Chiêu từ Pháp về. Đồng thời, ông cũng tích cực quyên góp tiền, cổ động cho đám tang chí sĩ Phan Chu Trinh và là một trong 12 thành viên của Ban tổ chức tang lễ[1]. Vì việc này, ông bị ghi vào sổ bìa đen của chính quyền thực dân Pháp.. Vì việc này, ông bị ghi vào của chính quyền thực dân Pháp.
Năm 1927, ông tổ chức cho một số thanh niên Gò Đen sang Pháp du học như: Nguyễn Văn Tạo, Phạm Văn Phấn (Cù Là Phấn), Nguyễn Văn Bích, Lại Thành Hưng, Võ Công Phụng (con trai ông),… Đồng thời, ông cũng cổ động, ủng hộ tài chính, tổ chức thành lập chi nhánh “Hội Khuyến học Nam Kỳ” tại Gò Đen và 3 trường học ở Long Hiệp, Long Can, Long Định. Hội có một tủ sách đầy đủ của “Tự lực văn đoàn” và những quyển sách bị chính quyền thực dân cấm lưu hành bấy giờ như của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh. Hàng tháng, Hội tổ chức mời diễn giả từ Sài Gòn - Chợ Lớn đến, diễn thuyết nhiều đề tài, thu hút được nhiều lớp người trong vùng đến nghe. Mục đích của Hội là tổ chức học tập, nâng cao dân trí, tuyên truyền, thức tỉnh tinh thần quốc gia dân tộc cho quần chúng nhân dân. Cũng trong năm này, ông đemphần lớn tài sản của mình để mua một chiếc tàu của Mỹ về sửa chữa, đặt tên là “Đại phúc kinh”, để làm phương tiện vượt biển cho một số thanh niên Nam Bộ sang Quảng Châu (Trung Quốc) tham gia các lớp huấn luyện của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Cuối năm 1927, ông sang Pháp thăm con là Võ Công Phụng đồng thời quan sát tình hình chính trị ở nước ngoài. Tại đây, ông đã có những cuộc tiếp xúc với các chí sĩ yêu nước như Nguyễn Văn Tạo, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và một số kiều bào yêu nước khác. Chuyến đi này có sức ảnh hưởng rất lớn trong việc chuyển hướng tư tưởng yêu nước của ông theo con đường Chủ nghĩa xã hội và cộng sản. Chính quyền Pháp rất lo ngại những cuộc tiếp xúc này, nên sau khi về nước, ông đã bị chính quyền thực dân Pháptạm giam tại Sài Gòn 25 ngày, nhưng do không có chứng cứ buộc tội và được gia đình lo lót nên đã thả ông sau đó.
Cuối năm 1928, một số đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng ở Bắc Kỳ được bí mật phái vào Nam để gây dựng cơ sở và thành lập Kỳ bộ Việt Nam Quốc dân Đảng ở Sài Gòn. ĐượcNguyễn Phương Thảo (sau này là Trung tướng Nguyễn Bình) vận động, ông tham gia quyên góp và trở thành đại diện của Việt Nam Quốc dân Đảng ở Nam Kỳ, dự kiến sẽ là Trưởng ban tuyên truyền của Kỳ bộ.

Toàn cảnh nhà cụ Võ Công Tồn,
trước nhà là bia di tích lịch sử quốc gia vườn - nhà Võ Công Tồn
Tuy nhiên, đến năm 1929, thực dân Pháp truy quét giam cầm hàng loạt thành viên các tổ chức chính trị hoạt động bí mật chống chính quyền thực dân tại Nam Kỳ như Hội kín Nguyễn An Ninh,Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, Đảng Tân Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng,… Ông cũng bị bắt và bị đưa ra Tòa đại hình Sài Gòn xét xử cùng với Trần Huy Liệu, Nguyễn Phương Thảo, Hà Thuận Hồng,… Ông bị kết án 5 năm tù[2] vì tội chứa chấp những thành phần “quốc sự”, tuy nhiên do lo lót tiền nên bản án của ông giảm xuống còn 18 tháng và bị đày đi Hà Tiên cùng lượt với Nguyễn An Ninh.
Sau khi ra tù, ông về quê củng cố lại hoạt động kinh doanh lò gạch. Bấy giờ, cơ sở sản xuất gạch ngói của ông có trên 300 công nhân, là cơ sở kinh doanh lớn, có ảnh hưởng lớn đồng thời càng trở thành cơ sở, chổ dựa đáng tin cậy của Đảng và những người yêu nước. Vì vậy, địa danh ấp Cá Trê dần bị thay bằng tên mới là ấp Lò Gạch.
Năm 1935, chi bộ Đảng của ấp Lò Gạch ra đời tại lò gạch của ông Võ Công Tồn gồm 03 đồng chí: Nguyễn Văn Chác (ba Trương) – Bí thư, Nguyễn Bá Lộc và Nguyễn Văn Thành. Cũng trong năm này ông ra tranh cử và đắc cử chức Hội đồng địa hạt Chợ Lớn, vì vậy dân chúng còn gọi ông là Hội đồng Tồn. Với địa vị này, ông nhiều lần tìm cách tranh thủ thực hiện “tự do, dân chủ” cho dân chúng Nam Kỳ, ủng hộ Nguyễn An Ninh đăng đàn diễn thuyết về “Quyết định lấy công nông làm nền tảng nhưng có thể bao gồm cả giai cấp tư sản nhằm giành quyền tự quyết dân tộc”và chủ trương “Tiến tới một cuộc đại hội Đông Dương”.
Từ năm 1936-1939, ông nhiều lần ủng hộ vật chất cho Đảng cộng sản hoạt động và là người hoạt động rất tích cực trong Ủy ban Lâm thời Đông dương đại hội. Ông còn là Phó Chủ tịch Hội cứu trợ nạn đói Bắc Kỳ. Ông được đề cử là một thành viên trong Chính phủ khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ thắng lợi. Mặc dù không phải là đảng viên Đảng Cộng sản nhưng ông luôn suy nghĩ và hoạt động như một người cộng sản.[3]
Tháng 9 năm 1939, Thế chiến thứ hai bùng nổ ở Châu Âu. Ở Đông Dương, nhà cầm quyền Pháp liền tuyên bố thiết quân luật, ráo riết truy lùng, bắt bớ và sát hại các nhà yêu nước và chiến sĩ cách mạng, hòng ngăn ngừa nhân dân Việt vùng lên tự giải phóng mình. Nguyễn An Ninh bị bắt ở ấp Lò Gạch. Một tuần sau, Võ Công Tồn cũng bị bắt về tội chứa chấp Nguyễn An Ninh. Ông bị giam tại Tà Lài cùng với Dương Quang Đông, Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu,Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn, Tô Ký,…
Ngày 16 tháng 4 năm 1940, Tòa tiểu hình Sài Gòn tuyên án gần 100 người, trong đó Võ Công Tồn chịu án 4 năm tù, 10 năm biệt xứ, đày ra Côn Đảo. Ông bị giam ở Banh II, là nơi giành riêng cho các chính trị phạm được liệt vào "nguy hiểm nhất" cùng với Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Khắc Sửu, Trần Ngọc Danh,… Do điều kiện lao tù khắc nghiệt, sức kiệt, ông qua đời tại Nhà tù Côn Đảo ngày 16 tháng 6 năm 1942.
Võ Công Tồn là một điền chủ, tư sản, có học thức và tinh thần yêu nước, giác ngộ cách mạng. Ông đã hoạt động tích cực cùng nhiều đồng chí gây dựng cơ sở cách mạng, ủng hộ cuộc đấu tranh của quần chúng chống lại ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp và tay sai. Nói về Võ Công Tồn, Giáo sư Trần Văn Giàu phát biểu: “Võ Công Tồn cùng với Nguyễn An Ninh là hình ảnh của “núi Hai Vì” hai tấm gương lớn về hoạt động cách mạng ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX”[4]. Do những đóng góp của mình, ngày 4 tháng 6 năm 1986, ông được Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Tên ông được đặt cho một con đường tại tỉnh lỵ Long An (theo quyết định số 2554/QĐ-UB ngày 18/10/1997 của UBND tỉnh Long An). Một số đường phố và trường học tại Long An cũng được mang tên ông. Khu nhà và lò gạch của gia đình ông được Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia theo Quyết định 02/2004/QĐ-BVHTT ngày 19 tháng 1 năm 2004.
Xin trích điếu văn của Giáo sư Trần Văn Giàu viết về ông để kết thúc bài viết về cuộc đời và sự nghiệp của một trí thức yêu nước, người con ưu tú của quê hương Bến Lức anh hùng, nơi không chỉ sản sinh ra nhà yêu nước Võ Công Tồn mà cũng là nơi chôn nhau cắt rốn của nhiều nhân vật lịch sử khác như Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Văn Tiếp, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Văn Tạo, Mai Thị Non… những người con làm rạng danh cho quê hương, tổ quốc.
Một nắm xương tàn chôn ở Hàng Dương
Hai trăm mẫu ruộng vườn,
hai trại cưa, ba lò gạch
Tất cả tiền của sẵn sàng góp vào sự nghiệp dân tộc
Ngồi tù Khám Lớn
bị đày đi Hà Tiên, Tà Lài, Côn Đảo
Tất cả cuộc đời
tận tụy hy sinh cho Tổ quốc Việt Nam độc lập tự do./.
Bài: Hồ Phan Mộng Tuyền
(theo Lý lịch di tích Nhà và Lò gạch Võ Công Tồn)
Ảnh: Văn Ngọc Bích