Chào mừng Liên hoan Cải lương toàn quốc - 2018 (Từ ngày 05 đến ngày 19/9/2018). Kỳ 2: Sân khấu cải lương Long An qua những bước thăng trầm
Dù khiêm tốn so với bề dày lịch sử 100 năm cải lương, sân khấu cải lương Long An đã hòa quyện vào dòng chảy chung để lại những dấu ấn nghệ thuật không thể nào quên, góp phần vào sự phát triển của bộ môn nghệ thuật dân tộc trải qua nhiều bước thăng trầm này.
1. Thời hoàng kim
Khi sân khấu cải lương chính thức ra đời ở Mỹ Tho (15/3/1918), Long An chưa có gánh cải lương nào, chỉ có vài gánh hát bội, nhưng như một số tỉnh, có xây rạp cải lương tại tỉnh lỵ (thành phố Tân An ngày nay) để đón các đoàn cải lương của Sài Gòn về. Dù vậy, do chiến tranh, từ những năm 1940, nhiều nghệ sĩ tài danh của Long An rời quê lên Sài Gòn hoạt động, như các đại danh cầm Văn Vĩ, Hai Biểu, Tư Huyện, Bảy Hàm, Ba Tu..., các nghệ sĩ Út Bạch Lan, Minh Vương, Mỹ Châu... đóng góp vào sự phát triển rực rỡ của cải lương miền Nam.
Tuy nhiên, sân khấu cải lương trong chiến khu cách mạng thì khá phát triển, khi từ năm 1960 đã có đoàn văn công tỉnh, đến năm 1963 có nhiều đoàn huyện làm nhiệm vụ "tay đờn, tay súng", phục vụ bộ đội và nhân dân vùng giải phóng, khi có giặc thì chiến đấu như một đơn vị vũ trang. Đến giữa năm 1972, phân nửa lực lượng Văn công tỉnh ra miền Bắc tập huấn chuyên môn, lực lượng còn lại phục vụ kháng chiến đến ngày giải phóng miền Nam năm 1975.
Sau năm 1975, thực hiện hình thức quản lý tập thể (ngành văn hóa cử cán bộ phụ trách tổ chức và chính trị, nghệ sĩ phụ trách nghệ thuật) và quốc doanh (nhà nước quản lý) các đoàn cải lương tư nhân giải thể hoặc sáp nhập vào đoàn cải lương tập thể, năm 1976, Đoàn cải lương Tân Dạ Lý - một đoàn cải lương tư nhân không mấy tên tuổi đang đăng ký hoạt động ở Long An, được sáp nhập thành Đoàn Cải lương Vàm Cỏ với lực lượng đào kép và ban lãnh đạo đoàn được giữ nguyên từ Tân Dạ Lý chuyển sang, đến năm 1980 thì đổi tên là Đoàn cải lương tập thể Long An II, do cán bộ Ty Văn hóa - Thông tin (Nguyễn Minh Tuấn) làm trưởng đoàn. Lực lượng đào kép có thêm nhiều gương mặt mới, nhiều vở có cả nghệ sĩ tài danh Minh Vương về cộng tác. Kịch mục lúc đó là những vở như Bên cầu dệt lụa, Lâm Sanh - Xuân Nương, Người đẹp trong tranh, Tiếng gọi núi sông...
Năm 1977, Đoàn Tiếng ca Trung Hiếu (thuộc Bộ Nội vụ) về đăng ký hoạt động ở Long An (vì Bộ Nội vụ không có chức năng quản lý đoàn cải lương) với danh nghĩa là Đoàn cải lương tập thể Long An I (Quyết định số 1523/ UB-QĐ-77 ngày 20/9/1977), là một đại bang chuyên nghiệp. Trong giai đoạn rực rỡ nhất của lịch sử cải lương miền Nam và cả nước (1975-1990), Đoàn cải lương tập thể Long An I với cơ sở vật chất trang thiết bị qui mô, mỗi khi Đoàn lưu diễn phải có từ 5-7 chiếc xe vận tải, nhiều xe con đưa đón đào kép và nhiều ngôi sao, nghệ sĩ tài danh đương thời như Út Bạch Lan, Minh Vương, Linh Vương, Lệ Trinh, Phương Tùng, Thanh Tâm, Kiều Lệ Tâm... do nghệ sĩ Năm Vui làm trưởng đoàn, soạn giả tài danh Hoa Phượng làm Phó trưởng đoàn kiêm soạn giả thường trực, nghệ sĩ Phương Tùng là Phó trưởng đoàn chỉ huy biểu diễn. Với những vở diễn ăn khách lâu dài như Trận tuyến thầm lặng, Khách sạn Hào Hoa, Tình ca biên giới, Bão tố cuộc đời, Dòng sông và đầm lầy... Đoàn cải lương tập thể Long An I là một trong những đơn vị cải lương tập thể mạnh nhất nhì ở miền Tây Nam Bộ, có doanh thu cao, được khán giả đồng bằng mến mộ.
Năm 1989, hai Đoàn cải lương tập thể Long An I và II sáp nhập thành một mang tên Đoàn cải lương Quốc doanh Long An. Nhiều nghệ sĩ tài danh rời Đoàn nhưng có số khác về như Ánh Hồng và Hữu Lộc (Phó trưởng đoàn cải lương Tây Ninh), nhìn chung lực lượng đào kép vẫn còn nhiều ngôi sao tài danh như Út Bạch Lan, Ánh Hồng, Đoàn Dự, Phương Tùng, Lệ Trinh, Thanh Tâm, Bảo Thanh, Như Phượng, Thúy Quyên, Minh Lắng, Minh Vũ, Tuyết Hoa, Thanh Long... Những vở diễn như Trà Hoa Nữ, Đất và hoa, Cánh hoa trong bão táp, Bạch Viên - Tôn Cát, Dệt gấm, Ánh sáng phù du, Hoàng tử và tên ăn mày... Đoàn diễn doanh thu chủ yếu ngoài tỉnh, tự thu tự chi cho biểu diễn, được mệnh danh là "Anh hùng miền Trung".
2. Bước sang giai đoạn mới
Tuy hoạt động khá tốt và giữ vững doanh thu nhưng Đoàn phục vụ không nhiều cho nhân dân tỉnh nhà; danh nghĩa là quốc doanh nhưng cán bộ lãnh đạo hưởng lương, lực lượng còn lại tự thu tự chi, diễn viên tên tuổi hưởng theo suất diễn. Từ đó, năm 1993, lãnh đạo tỉnh giải thể Đoàn cải lương quốc doanh, thành lập Đoàn nghệ thuật cải lương Long An thuộc Nhà nước, nhằm phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ chính trị của tỉnh nhà, do Sở Văn hóa – Thông tin Long An trực tiếp quản lý, Nghệ sĩ ưu tú (NSƯT) Hữu Lộc làm Trưởng đoàn. Đoàn bắt đầu có kế hoạch trẻ hóa đội ngũ bằng cách tìm kiếm nhân tố mới ở cơ sở, tuyển sinh và đào tạo tại chỗ, mời những thầy nghề nổi tiếng như Nghệ sĩ nhân dân (NSND) - đạo diễn Huỳnh Nga, NSND - đạo diễn Trần Ngọc Giàu, đạo diễn Thanh Hạp... về giảng dạy, mời NSƯT - danh cầm Hoàng Huệ làm nhạc trưởng. Đến cuối năm 1994, Đoàn đào tạo và sở hữu đội ngũ đào kép thanh xuân ra đời trong tình hình mới với khoảng 20 diễn viên ca diễn đồng đều như Nguyên Tâm, Vương Tuấn, Ngân Cường, Tấn Hùng, Vương Sang, Duy Thanh, Kim Ngà, Huyền Châu, Kim Phụng, Thùy Trang, Thanh Thủy... bên cạnh một thế hệ nghệ sĩ dày dặn nghề nghiệp như Hữu Lộc, Ánh Hồng, Đoàn Dự, Phương Tùng, danh cầm Hoàng Huệ. Nhiều kịch bản mới ra đời có nội dung ca ngợi đất và người Long An trong kháng chiến và xây dựng Tổ quốc như Hãy yêu nhau thật lòng, Lửa thần, Ánh sáng phù du, Trà hoa nữ, Cánh hoa trong bão táp, Người đánh rơi hạnh phúc, Bà mẹ vùng ven... Từ đây, Đoàn nghệ thật Cải lương Long An bám vào mục tiêu nhiệm vụ chính là là phục vụ khán giả tỉnh nhà.
Trong bối cảnh tình hình cải lương cả nước đang trên đà tuột dốc, ngay cả như trung tâm cải lương là Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều đoàn lớn cũng thất thu, một số tạm ngừng hoạt động... để đi tìm hướng đi mới trong quá trình chuyển giao, thì Long An là đơn vị đi đầu.
Từ năm 1998 về sau, Đoàn luôn có nhiều nỗ lực nâng cao chất lượng nghệ thuật phục vụ nhân dân, có thêm nhiều đào kép chính như Tuyết Ngân, Thanh Dũng, Bảo Thanh, Mỹ Thu, Mai Thắm, Hồng Hạnh... dàn nhạc ngoài nhạc sĩ Hoàng Huệ có thêm Văn Đuộc, Lê Kiệt, Quốc Tú, Thanh Nguyệt, ngoài những vở diễn cũ nay có thêm Vụ án chàng Trương, Võ Văn Tần một dấu son, Hồn đàn, Hương tràm, Nghĩa sĩ Cần Giuộc... Thời điểm này Đoàn còn phục vụ miễn phí mỗi năm từ 60-80 suất phục vụ nhân dân vùng sâu vùng xa và từ năm 2000, Đoàn diễn không doanh thu hoàn toàn với 120-150 suất diễn/năm với mục đích ý nghĩa "đền ơn đáp nghĩa". Ngoài nhiệm vụ chính trị tỉnh giao, Đoàn còn được đầu tư cho những cuộc Liên hoan, Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, nhiều cá nhân đoạt huy chương vàng, bạc và có người trưởng thành, nghề vững vàng như Hồ Ngọc Trinh, Nguyên Tâm, Vương Sang, Vương Tuấn... Từ năm 2005, Đoàn tiếp tục được bổ sung nhiều diễn viên triển vọng được đào tạo chính qui như Mai Thắm, kế đó là Chí Thanh, Hoàng Oanh, Trần Minh, Khánh Quỳnh, Phương Nhi, Trọng Tánh... để tiếp tục duy trì hai thế hệ, tiếp tục khẳng định là một trong những đơn vị nghệ thuật mạnh, thanh xuân của khu vực phía Nam. Về nghệ thuật, Đoàn còn được rộng rãi khán giả biết đến qua màn ảnh nhỏ của nhiều đài truyền hình phía Nam như Đài Phát thanh và Truyền hình Long An, Đài truyền hình Cần Thơ (VTV), Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh... với những vở Người đánh rơi hạnh phúc, Lửa thần, Nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bà mẹ vùng ven, Võ Văn Tần một dấu son, Trở lại chiến trường xưa, Hồi xuân dược, Hãy yêu nhau thật lòng...
Kể từ khi Đoàn nghệ thuật Cải lương Long An ổn định cơ cấu tổ chức và thanh xuân hóa lực lượng (1994) đến nay, Đoàn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tỉnh giao, được các cấp chính quyền, ngành từ Trung ương đến địa phương tặng nhiều bằng khen, giấy khen cho tâp thể và cá nhân; tham dự nhiều lần Liên hoan, Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc, giành nhiều huy chương vàng, bạc, đồng. Đặc biệt, Đoàn đã có 8 nghệ sĩ được Nhà nước phong tặng danh hiệu NSƯT là các nghệ sĩ Ánh Hồng (Huy chương Vàng giải Thanh Tâm, 1962), Hữu Lộc, Đoàn Dự, Mỹ Thu, Hồ Ngọc Trinh, Phương Tùng, Tuyết Ngân và Nguyên Tâm.
Nhưng thành công lớn nhất và đáng quí nhất của Đoàn nghệ thuật Cải lương Long An chính là đã để lại tình cảm, dấu ấn sâu đậm trong lòng công chúng nhân dân tỉnh nhà. Vắng Đoàn bà con nhắc, Đoàn đến bà con mừng, Đoàn đi bà con luyến tiếc. Đó chính là thành tựu lớn lao của Đoàn nghệ thuật Cải lương Long An tạo dựng nên dù phải trải qua những bước thăng trầm của cải lương cả nước nói chung./.
Nguyễn Tấn Quốc
(Còn tiếp)
Kỳ 3: "Cải cách hát ca theo tiến bộ"